Trekking thác Hang Én giữa đại ngàn Gia Lai
Thác Hang Én như dải lụa trắng giữa núi rừng hoang sơ, là điểm đến dành cho những người đam mê du lịch trải nghiệm.
Thác Hang Én nơi đầu nguồn sông Côn nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Gia Lai và Bình Định, thuộc địa phận huyện K’bang (Gia Lai). Đây là điểm du lịch khám phá không dành cho những người yếu tim, nếu muốn chinh phục bắt buộc phải có thổ địa hướng dẫn, vì đường đi trekking-hiking hiểm trở với những mối đe dọa tiềm ẩn giữa chốn “thâm sơn cùng cốc”.

Vào trung tuần tháng 3, nhóm nhiếp ảnh gia Gia Lai cùng đồng nghiệp lập team chinh phục thác Hang Én này với sự hướng dẫn của các kiểm lâm viên. Đây là những thổ địa có kinh nghiệm dẫn đường tại khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng (huyện K’bang, Gia Lai).

Khu bảo tồn này có khoảng 15.900 hecta rừng đặc dụng, có hệ sinh thái chuyển tiếp giữa vùng Đông và Tây của dãy Trường Sơn nên hệ động thực vật phong phú, đa dạng. Vùng đệm khu bảo tồn còn có những mái nhà ấm cúng trong bản làng mang đậm nét văn hóa bản địa của đồng bào Ba Na.
Tại đây có trên 10 con thác, nhưng đẹp và hùng vĩ nhất là thác Hang Én, hay thường gọi là thác 50. Thủ tục đăng ký với Ban Quản lý khu bảo tồn để đến thác Hang Én diễn ra nhanh chóng.

Trước khi xuất phát, nhóm đều phải chuẩn bị lều, túi ngủ, lương thực và nước uống cho hành trình hai ngày một đêm. Những vật dụng cần thiết không thể quên là giày leo núi hay giày lội suối, đồ đi rừng và áo khoác nhẹ. Một trong những điều cần ghi nhớ là theo dõi thời tiết. Từ tháng 3 đến tháng 6 là khoảng thời gian lý tưởng với tiết trời nắng ấm, khô ráo để khám phá thác. Cả nhóm đi có sự hỗ trợ khuân vác đồ của các poster.
Phan Nguyên, nhiếp ảnh gia tại Gia Lai, cho biết từ sau khi xuất phát từ trạm Kiểm lâm khu bảo tồn, đoàn mất khoảng ba tiếng để di chuyển trên xe máy cày đến khu vực Trại Bò (ảnh), một đồng cỏ lớn hoang sơ được người bản địa dựng nhà làm rẫy. Đây cũng là điểm đầu tiên cho hành trình trekking xuyên Kon Chư Răng.

Xe máy cày chuyên dụng chở đoàn có thể “càn quét” mọi chướng ngại vật trong đường băng rừng hiểm trở. Ngồi trên xe di chuyển gập ghềnh là một trong những khoảnh khắc ấn tượng nhất cuộc hành trình.
Cả nhóm tranh thủ ghi lại quang cảnh núi rừng hoang sơ xung quanh, bất chợt thành viên đoàn hô lên khi bị những sâu róm, sâu đo hay bọ cánh cứng có hình thù kỳ lạ bám trên các nhánh lá rừng rớt trúng vào người, khi xe di chuyển ngang qua.

Chinh phục thác Hang Én, nhóm khách phải “trèo đèo lội suối” bởi giữa rừng chỉ có những con đường mòn len lỏi trong cây lá rậm rạp, lội qua các dòng suối hoặc dốc đá cao hiểm trở. Trên đường di chuyển dễ gặp phải rắn hay vắt lá. Khoảng cách từ khu Trại Bò đến thác Hang Én gần 5 km.
Theo nhiếp ảnh gia Trần Bảo Hòa (Đắk Lắk), vất vả nhất là đoạn leo qua con dốc có độ nghiêng 60 độ với quãng đường khoảng 500 m, ngoài ra đoàn còn phải chống gậy chống trơn trượt khi đi qua vùng sình lầy.

Tại những đoạn khu vực rừng đầm lầy, ẩm ướt, dù các thành viên đã trang bị quần áo kín mít, những con vắt len lỏi vẫn bám dính và hút máu no nê lúc nào không hay. Trong ảnh là con vắt no căng máu sau khi “chui” vào lều cắn một thành viên đoàn.

Sau một ngày băng rừng xuyên suốt, cả nhóm bắt đầu hạ trại khi hoàng hôn buông xuống. Cắm trại qua đêm tại đây là một trải nghiệm thú vị giữa nơi không sóng điện thoại, không wifi.
Nhóm lửa nấu ăn, mùi khói bếp, mùi thịt heo nướng thơm lừng lan tỏa. Mọi người cùng nhau sẻ chia vắt cơm cháy giữa rừng. Đây cũng là thời điểm lý tưởng để ngắm sao đêm và hòa mình vào cái lạnh đêm khuya đặc trưng của vùng cao nguyên lộng gió.

Tờ mờ sáng, âm vang tiếng thác chảy giữa đại ngàn gần đó thôi thúc cả nhóm lên đường, dù khắp người dường như còn ê ẩm. Mọi người tranh thủ dọn dẹp các vật dụng, rác còn thừa đêm qua để không làm ô nhiễm môi trường. Sau đó, các thành viên vệ sinh cá nhân, ăn vội mì ly và men theo triền núi xuống chân thác để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Hang Én.

Mùa khô dòng nước thác tuy không nhiều nhưng cả nhóm phải thốt lên hai tiếng “hoành tráng” với dòng thác đổ như dải lụa trắng.

Thác Hang Én là “tác phẩm nghệ thuật” của tạo hóa làm du khách như lạc vào cõi mơ, tạo nguồn cảm hứng để các nhiếp ảnh gia thỏa sức sáng tạo đam mê sáng tác.

Nhìn từ xa, thác Hang Én có độ cao khoảng 50 m, vào mùa khô nên bề rộng thác dao động 20-30 m, dòng chảy mạnh theo chiều thẳng đứng tạo sương mù và cầu vồng. Chân thác, những khối đá với muôn hình vạn trạng, xếp chồng lên nhau tạo thành những bậc thang sừng sững giữa dòng nước xanh bạc, mờ ảo trong làn bụi nước.
Huỳnh Phương/ Ảnh Phan Nguyên
Theo Vnexpress.net
Hàng ăn ở Pleiku
Theo tìm hiểu của người viết, nhiều món ăn truyền thống như: cơm lam, gà nướng, canh lá mì, muối lá é… của người Jrai, Bahnar bản địa chỉ là món ăn thường nhật, thức món để cúng hay dùng trong dịp lễ hội. Tất nhiên, để nâng tầm đặc sản như hiện nay, người chế biến phải “chỉnh đốn” món ăn, cả chất lượng và thẩm mỹ.
Như món gà nướng chẳng hạn, người Tây Nguyên trước kia chỉ đốt gà, đốt nguyên con còn cả lông sau khi đã đập chết. Sau đó dùng tay phủi lông, bóc lấy nội tạng, vứt bỏ những gì không ăn được chứ đâu có cắt tiết, làm lông, làm sạch bộ lòng rồi nướng bằng hơi nóng lửa than vàng hươm như bây giờ.
Quá trình chế biến ngày trước không có gia vị, cả các món muối, món canh. Như món cà đắng lá mì truyền thống chỉ là canh, gia vị có muối hạt và lá lưỡi nai, gần giống lá lốt, mọc nhiều ở khe đá bên bờ suối, người Jrai gọi là “rang mtah”. Bây giờ thay vào đó là mì chính, bột nêm. Riêng cách nấu canh mỗi gia đình, mỗi nhà hàng, quán ăn có cách chế biến khác nhau.
Ngoài nguyên liệu không thể thiếu là cà đắng bổ dọc làm tư, lá mì non (có khi thêm hoa đu đủ đực, quả cà dại chỉ bằng ngón tay út người lớn), họ cho vào chút mỡ heo, thịt nạc băm nhuyễn hay cá khô giã nát… nghĩa là có đạm động vật. Quan sát thấy thế, chứ chất lượng khác nhau, vị ngon hòa quyện từ vị đắng của cà, của hoa đu đủ, thơm nồng của lá mì nhờ cách vò lá, chọn lá… Tựu trung là bí quyết.
Bánh xèo tôm đất Bình Định khẳng định thương hiệu ở Pleiku. Ảnh: internet
Bây giờ, món ăn nhiều vùng miền cả nước đã có mặt ở Pleiku, lại được các tay đầu bếp “chỉnh đốn” sao cho hết sức thẩm mỹ, cho hợp khẩu vị “cư dân góp” không chỉ riêng thành phố này mà còn cho cả du khách dù biển hiệu vẫn ghi “đặc sản”, “gia truyền” đi kèm tên địa phương sinh ra món ăn đó.
Có thể kể đến món canh cá rô đồng, cá trắm nổi tiếng của Thái Bình. Về đến Pleiku, món này chuyển thành món bún cá lóc.
Cái tài của đầu bếp là ở chỗ, người sành ăn cũng không tài nào phân biệt được sự khác nhau từ nguyên liệu cá. Còn canh hay bún chỉ là cách gọi, có khác nhau ở kích cỡ sợi bún, không vấn đề. Kèm theo tô bún cá lóc có đĩa cải non, hành lá xắt tia, giá sống đặt riêng; cả đĩa rau thơm gồm tía tô, húng quế, ngò gai… Về thức nêm thì thêm lọ mắm ruốc rất hợp với cư dân miền Trung, được mệnh danh là dân mắm ruốc.
Món bún chả Hà Nội “di cư” vào Pleiku vẫn giữ nguyên chất lượng nhưng được thu nhỏ hẳn, chỉ bằng phân nửa; món nước chấm vị mặn hơn, nhiều đường hơn bột ngọt. Ở Hà Nội, bún chả còn được dùng vào bữa chính. Đến Pleiku, nó là thức quà sáng.
Chỉ là vài ví dụ.
Có nhận xét, quà quê là cách người tha phương đem theo, gợi tìm hình ảnh quê nhà nơi đất mới để sưởi ấm nỗi lòng. Mà đúng vậy, thuở ban sơ, những người từ đồng bằng vượt đèo cao núi xa đến với Phố núi này không đơn lẻ từng hộ mà họ rủ theo nhiều người trong họ mạc, xóm giềng, bè bạn định cư quần tụ với ước mong là để nương tựa, giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
Thuở đó, vì địa hình cách trở, phương tiện đi lại khó khăn, thông tin hạn chế, điều kiện mưu sinh vất vả nên phải lâu lắm, với lý do trọng đại nào đó, họ mới khăn gói trở về thăm quê. Để thỏa mãn nhu cầu tìm lại hương vị ẩm thực quê nhà, một số người bày bán dăm món đặc trưng vùng miền. Bên nhau trong quán nhỏ, cùng nhau thưởng thức món quê, nghe giọng quê qua lời trò chuyện thấy mạch nguồn xứ sở trào dâng trong huyết quản.
Cư dân ở Pleiku đến từ khắp miền, khi điều kiện kinh tế phát triển kéo theo sự “bung nở” hàng quán, đó là điều dĩ nhiên.
Người gốc ở vùng miền nào thì thể hiện hàng quán của vùng miền ấy, thế nên mới có bún bò Bà Dinh, phở Hà Nội, bún chả Hà Nội, bún cá Thái Bình, phở gia truyền Nam Định, bún chả cá Quy Nhơn, cháo lòng bánh hỏi Tam Quan, bánh xèo tôm đất Bình Định, mì Quảng… Thực khách đến đây không còn bó hẹp theo nghĩa “đồng hương” ăn món quê để tìm lại hương vị quê hương đã xa lắm, chỉ còn đọng lại chút dư hương trong ký ức xa xăm, mà còn để thưởng thức món ngon, lạ từ vùng miền khác. Để cùng cảm nhận cái hồn của từng miền đất với những sắc thái riêng, khó lẫn.
NGUYỄN ĐÌNH PHÊ
Theo Baogialai.com.vn